Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

Hồng Lâu Mộng 61 - 80-21

Trang 21 trong tổng số 23

Hồi thứ bảy mươi tám

anh sex
truyen dam
phim sex hay
truyen sex hay
truyen lau xanh
truyen loan luan
truyen nguoi lon
truyen sex hoc sinh

Họa sĩ già ra bài từ Quỷ hoạch;
Công tử ngốc làm văn tế phù dung.
Bọn gia khách xem xong, khen ầm cả lên:
- Cậu em mới có mười ba tuổi mà đã thế này! Thế mới biết dòng dõi học nghiệp uyên thâm, thực là không ngoa!
Giả Chính cười nói:
- Giọng còn trẻ con, nhưng cũng đáng khen cho nó đấy.
Lại xem đến bài của Giả Hoàn là một bài thơ ngũ ngôn, thấy viết:
Đã mấy ả biết sầu,
Tướng quân lòng vẫn đau,
Gạt sầu rời cẩm trướng,
Ôm hận tới Thanh Châu,
Ơn nặng đền đôi chút .
Thù sâu trả dễ đâu?
Mộ đề chữ trung nghĩa,
Truyện lạ rõ nghìn thâu.

Mọi người nói:
- Lại hay hơn! Cũng vì lớn hơn mấy tuổi, nên lập ý của cậu ấy có khác.
Giả Chính nói:
- Kể ra cũng không kém lắm, nhưng vẫn không sát.
Mọi người nói:
- Thế cũng được rồi. Cậu Ba cũng chưa mấy tuổi, vẫn chưa đến tuổi đội mũ(4), làm được như thế, độ mấy năm nữa, có lẽ cũng chẳng kém gì Đại Nguyễn, Tiểu Nguyễn ngày xưa.(5)
Giả Chính cười nói:
- Các vị quá khen. Chỉ phải cái tội là nó không chịu học thôi.
Rồi hỏi đến Bảo Ngọc. Mọi người nói:
- Câu Hai còn đương để ý điêu luyện, chắc thế nào tứ thơ cũng phong lưu thương cảm hơn những bài này.
Bảo Ngọc cười nói:
- Đầu bài này làm cận thể không đúng, phải là cổ thể, hoặc lối ca hay lối hành, làm một bài trường thiên thì mới sát được.
Mọi người nghe nói đều đứng dậy cả, gật đầu vỗ tay nói:
- Chúng tôi đã bảo là cậu ấy lập ý khác hẳn mà! Mỗi khi đầu bài đến tay, phải đắn đo trước xem nên làm thể cách nào cho đúng. Đó là phép thần diệu của tay lão thành. Đầu bài này gọi là “Quỷ Hoạch từ”, lại có tựa sẵn rồi, nên làm bài trường thiên theo lối ca hay hành, thì mới hợp thể cách. Như bài “Kích âu ca” của Ôn Bát Xoa, bài “Cối kê ca” của Lý Trường Cát, bài “Trường hận ca” của Bạch Lạc Thiên(6) hoặc làm bài vịnh cổ, vừa kể chuyện vừa vịnh cảnh, lời thơ chải chuốt nhẹ nhàng thì mới tả hết cái hay của nó.
Giả Chính nghe nói, hợp với ý mình, liền cầm bút định viết. Ông ta lại cười và nói với Bảo Ngọc:
- Như thế rất hay. Mày đọc tao viết. Nếu không hay thì tao lột xác mày cho mà coi. Ai bảo mày cứ nói khoác không biết xấu hổ!
Bảo Ngọc đành phải đọc một câu:
Khỏe và đẹp Hằng vương thích cả,
Giả Chính viết xong, lắc đầu nói:
- Thô quá!
Một môn khách nói:
- Như thế mới là cổ phong, không thô đâu. Hãy xem những câu dưới!
Giả Chính nói:
- Thôi hãy để đấy.
Bảo Ngọc lại đọc:
Dạy mỹ nhân kị xạ đua tài.
Hát hay múa dẻo chưa vui,
Giương cung bày trận được người thích hơn.
Giả Chính viết ra. Mọi người đều nói:
- Câu thứ ba thật là cổ kính, rất hay. Câu thứ tư kể xuôi, rất đắc thể.
Giả Chính nói:
- Thôi đừng khen nhảm nữa, hãy xem câu chuyện thế nào?
Bảo Ngọc đọc:
Mắt nào thấy nổi cơn gió bụi,
Trước bóng đèn đã rọi quân trang.
Mọi người nghe xong hai câu đều nói:
- Hay! Dưới câu “Mắt nào thấy nổi cơn gió bụi”, lại nói luôn câu “Trước bóng đèn đã rọi quân trang”, dùng chữ dùng câu đều thần diệu cả!
Bảo Ngọc lại đọc:
Miệng hò, sặc những mùi hương,
Mềm tay gươm, tuyết dao sương ngượng ngùng.
Mọi người nghe xong đều vỗ tay cười nói:
- Càng như vẽ ra ấy! Chắc cậu Bảo hồi ấy cũng ở đấy, được nhìn rõ vẻ yêu kiều và ngửi thấy cả mùi hương của họ chứ gì? Nếu không sao lại tả đúng được như thế?
Bảo Ngọc cười nói:
- Người khuê các tập võ, dù khỏe đến đâu cũng không bằng được con trai. Không nói thì cũng biết rõ cái dáng yếu ớt nhút nhát rồi.
Giả Chính nói:
- Mày không đọc tiếp ngay đi! Lại còn ngồi nói lẻm.
Bảo Ngọc đành phải nghĩ một lúc rồi đọc:
Hạt đinh hương, phù dung giây giắt.
Mọi người đều nói:
- Chọn vần rất hay, có thế lời thơ mới chải chuốc nhẹ nhàng. Và câu này lại còn văn hoa đẹp đẽ.
Giả Chính viết xong nói:
- Câu này không hay, trước đã có những chữ như “sặc những mùi hương” và “mềm tay ngượng ngùng” thì việc gì lại phải dùng câu này. Đó là vì đuối sức nên nó phải gán ghép những chữ ấy để lấp liếm cho qua đấy thôi.
Bảo Ngọc cười nói:
- Bài trường ca thì thế nào cũng phải điểm xuyết những câu văn hoa, không thế đâm buồn mất.
Giả Chính nói:
- Mày chỉ lo dùng những chữ ấy, còn dưới câu này làm thế nào để chuyển ý sang việc tập võ đây? Nếu nói thêm nữa thì chẳng hóa ra vẽ rắn thêm chân sao.
Bảo Ngọc nói:
- Như thế, thì câu dưới sẽ chuyển cũng được.
Giả Chính cười nhạt:
- Sức học mày được bao nhiêu! Câu trên mày mở rộng quá, bây giờ mày lại muốn chuyển ý ngay, chẳng hóa ý muốn thì nhiều mà sức không đủ hay sao?
Bảo Ngọc nghe nói, cúi đầu nghĩ một lúc rồi đọc:
Đeo dao này đành vất châu kia.
Rồi hỏi: “Câu này có thể dùng được không?”
Mọi người vỗ bàn khen hay tuyệt.
Giả Chính cười nói:
- Hãy khoan đã, mày đọc nữa đi.
Bảo Ngọc nói:
- Nếu được thì con đọc luôn một mạch, không được xin cứ xóa cả đi, con sẽ nghĩ ra tứ khác và đặt câu lại.
Giả Chính nghe nói, liền quát:
- Mày nói nhiều quá! Không được thì làm lại bài khác. Mày làm mười bài, một trăm bài lại sợ khó nhọc hay sao?
Bảo Ngọc đành nghĩ một lát rồi đọc:
Tập xong uể oải đêm khuya,
Ngấn song nhường đã đầm địa lụa dao
Giả Chính nói:
- Đó là xong một đoạn rồi. Câu dưới như thế nào?

Bảo Ngọc đọc:
Sơn Đông giặc năm sau nổi loạn,
Ong kéo đàn, chực ngốn hùm beo,
Mọi người nói:
- Chữ “nổi” hay đấy! Thế mới biết được là cao hay thấp. Vả suốt cả câu chuyển ý cũng không câu nệ gò ép.
Bảo Ngọc lại đọc:
Diệt thù vua dẫn quân theo,
Ngờ đâu thử một hai keo đã chùng.
Gió tanh ngắt thổi tung lúa nội,
Trướng hùm đâu nắng rọi bóng cờ.
Núi vắng lặng, nước lờ đờ,
Nơi Hằng vương chết bây giờ là đây.
Xương dầm nước, máu rây ngọn cỏ,
Bóng giăng tà, thây nọ ma canh.
Mọi người đều nói:
- Hay quá, hay qúa! Dàn bài kể chuyện và lời văn đều hay cả. Giờ hãy xem tiếp đến Tứ nương ra sao, tất phải có một câu chuyển mới lạ.
Bảo Ngọc lại đọc:
Quan quân chỉ biết giữ mình,
Ngồi nhìn khắp cõi châu Thanh mịt mùng.
Trong khuê các tỏ lòng trung phẫn,
Xui ái cơ nổi giận đùng đùng.
Mọi người đều nói:
- Dàn bài rất là khúc chiết.
Giả Chính nói:
- Dài quá rồi, chỉ sợ đoạn dưới lại rườm thôi.
Bảo Ngọc lại đọc:
Ái cơ thứ mấy trong cung?
Thứ Tư là gái anh hùng họ Lâm.
Nghiêm lệnh xuống ả Tần, gái Triệu,
Mặt trăm hoa đưa tiễn chiến trường.
Lệ xuân đè trĩu yên cương,
Áo bào lặng lẽ, đêm trường hắt hiu.
Cuộc thua được khó chiều định trước,
Đáp ơn người trọn ước tử sinh.
Giặc kia hung hãn thôi đành,
Hoa tan tác cánh, tuyệt xanh xám màu.
Quyện mùi phấn vó câu ngào ngạt,
Xa gia hương hồn giạt bên thành.
Tin sương sớm báo về kinh,
Chị em nào chẳng xót tình cho ai.
Nỗi mất đất con trời càng bực,
Nhìn trăm quan đầu gục ngồi trơ.
Trong triều văn vũ bấy giờ,
Đã người nào được như là Lâm nương?
Lâm nương nghĩ đến mà thương,
Ca rồi lòng những bàng hoàng khôn nguôi !

Đọc xong, mọi người đều khen ngợi không ngớt, lại xem một lượt nữa.
Giả Chính cười nói:
- Tuy nói được mấy câu, nhưng cũng không sát mấy.
Liền bảo:
- Thôi cho về.
Ba người như được tha tội, đều đi ra, rồi ai về nhà nấy. Bảo Ngọc trong bụng buồn rầu, lúc về đến vườn trông thấy hoa phù dung trên ao, nhớ ngay chuyện Tình Văn, lại thấy vui sướng, rồi nhìn hoa phù dung than vãn một lúc. Sau lại nghĩ: “Khi Tình Văn chết, ta chưa đến tế trước linh cữu, bây giờ tế ở trước hoa phù dung, lại không tận lễ hơn sao?” Nghĩ xong, muốn làm lễ ngay, nhưng lại tự nhủ: “Dù thế nhưng cũng không nên cẩu thả quá, phải có áo mũ chỉnh tề, đồ lễ đầy đủ thì mới thực là thành kính”. Rồi nghĩ bụng: “Cổ nhân nói: Rau cỏ thường dùng ở nơi bờ ao, vũng nước cũng có thể đem dâng vương công, tế quỷ thần được. Chỉ cốt có lòng thành kính, chứ không kể lễ vật sang hèn. Nhưng nếu không làm một bài văn tế, thì nỗi buồn rầu chua xót này không có chỗ nào phát tiết ra được”. Bảo Ngọc liền lấy một bức lụa giao trắng mà trước kia Tình Văn vẫn thích, viết một bài bằng chữ chân phương, gọi là “Bài văn tế cô phù dung”. Trước là bài tựa, sau là bài ca. Lại bày bốn thứ đồ ăn mà Tình Văn vẫn thích khi còn sống. Đến lúc chiều tà, người vắng Bảo Ngọc sai bọn a hoàn bưng đến bày ở trước hoa phù dung. Làm lễ xong, treo bài văn tế lên cành hoa, rồi khóc và đọc:
“Nay là năm thái bình bền vững, là tháng hoa dung, hoa quế đua tươi, là ngày không biết làm thế nào được. Ngọc thô trọc này ở viện Di Hồng, gọi là có nhị các hoa, lụa giao trắng, nước suối thơm và chè ướp móc, bốn thứ này tuy là vật rất tầm thường, nhưng cũng để tỏ lòng thành tín, đem đến tế ở trước nữ thần phù dung, giữ chức cai quản các hoa mùa thu ở cung Bạch Đế và có lời kính tế rằng:
Trộm nghĩ, từ khi cô xuống cõi trần, đến nay đã mười sáu năm. Họ tên quê quán thất lạc từ lâu, không sao tra cứu được. Nhớ những khi chung chăn gối, cùng tắm gội, những đêm ngồi nghỉ mát, đi chơi rong. Ngọc này cùng cô vui đùa thân mật mới được vẻn vẹn năm nam tám tháng; ngày vui sao lại ngắn ngủi thế này! Nhớ cô lúc bình sinh, chất thì cao quý, vàng ngọc cũng thua; thân lại trắng trong, tuyết băng khôn sánh. Tinh thần sáng suốt, át cả mặt trời, ngôi sao, nét mặt vui tươi, hơn hẳn giăng soi, hoa nở. Chị em mến người tài sắc, vú bõ trọng bực hiền hòa. Ngờ đâu, bay quá cao cho chim độc ghét ghen, giống cắt nọ sa vào bẫy lưới; mùi thơm lựng nên cỏ gai tức tối, khóm lau kia lại bị bừa cào! Hoa vốn nhát rồi, nào quen gió táp? Liễu xem buồn quá, khôn chống mưa rào! Bị loài sâu bọ dèm pha, mắc bệnh cao hoang nguy hiểm. Vì thế, môi anh đào nhợt lại, rền rĩ vần thơ, vẻ hồng hạnh se dần, võ vàng nét mặt. Những lời chì chiết, từ chỗ màn the; nhiều cảnh chông gai, lan ngoài cửa ngõ. Ngấm ngầm bụng đã chán rồi; bực tức oan còn buộc mãi. Vẻ cao quý tổ người ghen ghét, trong buồng the mà ngao ngán cảnh “Trường Sa”;(7) lòng kiên trinh gặp buổi gian truân, bạn khăn yếm những âm thầm nơi nhạn tái.(8) Đắng cay mình chịu; vùi dập ai thương? Tan tác mây tiên; mịt mù gót ngọc. Bãi mờ hang thuốc, hương khước tử đâu đây? Bể vắng bè thiên, thuốc hồi sinh nào thấy? Nét ngài biêng biếc, ta vẽ trước kia; tay ngọc lạnh lùng, ai người ủ ấm? Vạc nọ thuốc thừa bừa bãi; áo kia ngấn lệ đầm đìa. Hộp xạ nguyệt mở lại thêm buồn, gương đành loan vắng; gỗ đàn vân tung ra từng mảnh, lược hóa rồng bay. Hoa vàng vứt đám cỏ gianh; hộp biếc nhặt nơi gió bụi. Lầu Chi Thước buồn tênh thất tịch, còn cái kim treo; giải Uyên Ương đứt hẳn năm dây, hỏi ai người nối? Huống chi gặp tiết kim thu; quyền về Bạch Đế. Chăn đơn mơ mộng; nhà cửa đìu hiu. Thềm quế trăng mờ, bóng đẹp hồn thơm đâu tá; màn dung hương nhạt, lưng eo hơi yếu còn chi! Đầy trời cỏ héo, nào chỉ sậy lau? Khắp đất tiếng buồn, những là giun dế. Thềm long lanh móc, tiếng chày gieo gió lọt trong rèm; tường lác đác mưa, khúc sáo oán khôn nghe ngoài viện. Trước thềm anh vũ chưa quên, luôn miệng tên thơm vẫn gọi; ngoài cửa hải đường đã héo, báo tin người ngọc sắp đi. Trò chơi sau rèm, gót sen vắng ngắt; chọi gà trên cỏ, hoa lan chờ hoài. Chỉ thêu bỏ lại, áo hoa lụa bạc ai khâu? Tơ băng gấp rồi, hương ngự bàn là chưa đốt. Theo lệnh cha lúc trước, dong xe xa tới phương viên, trái oai mẹ lần này, chống gậy toan đưa linh cữu. Chợt nghe, ván thơm bị cháy, tình “cộng huyệt” đâu còn; quách đá vỡ tan, nghĩa đồng hôi(9) đáng thẹn. Đến nỗi gió tây lùa vào chùa cũ, lẩn quất ma trơi; bóng chiều rọi khắp gò hoang, rã rời xương trắng. Thu du xào xạc; lau sậy đìu hiu. Vượn kêu dưới đá sương mù; ma khóc quanh vùng khói tỏa. Nào phải trong màn lụa đỏ, chàng nọ tình sâu; mới hay dưới bãi đất vàng, gái kia mệnh bạc. Đất Nhữ Nam dòng dòng giọt lệ, nhỏ trước gió tây; nơi Tử Trạch ngầm ngấm tình riêng, giãi cùng trăng lạnh. Than ôi! Ma quỷ thực là độc ác; thần linh nào có ghét ghen. Lũ dèm pha đành phải rạch mồm, tha làm sao được? Con ác phụ dù đem mổ bụng, giận vẫn chưa nguôi! Tuy duyên trần cô chửa bén bao lâu; nhưng lòng quê, Ngọc này khôn xiết tả. Nỗi riêng quyên luyến, thăm hỏi ân cần. Mới biết cờ thượng đế cho vời; nơi cung hoa đợi chiếu. Sống thì bạn bè lan huệ, thác thì cai quản phù dung. Tuy nghe lời hầu nhỏ, chuyện khá hoang đường, nhưng cứ ý Ngọc này, lẽ đà xác thực. Tại sao thế? Ngày trước Diệp Pháp Thiện(10) bắt hồn Lý Ung viết hết bài bia; Lý Trường Cát(11) theo lệnh Ngọc Hoàng lên làm bài ký. Việc tuy khác nhau, nhưng lẽ thì một. Nên phải lựa tài mà giao việc, nếu dùng người không đúng thì chẳng hóa ra lạm lắm sao? Vậy mới biết đức thượng đế cân nhắc từng người, giao phó công việc, rất là đúng và rât là hợp, không uổng cái tính chất trời đã phú cho mọi người. Mong linh hồn cô không bao giờ mờ tối, thường hay phảng phất về đây, nên cứ liều lĩnh đọc mấy câu quê kệch này, chắc không phải nhàm tai người sáng suốt.

Liền hát bài chiêu hồn:
- Trời xanh xanh chừ, hay cô cưỡi rồng ngọc dạo chơi trên không đây?
Đất sao mông mênh chừ, hay cô ngồi xe giao tượng xuống chơi suối vàng đây?
Nhìn tàn lụa lấp lánh chừ, hay sao Cơ, sao Vĩ sáng rực lên đây?
Dẫn đường lại có hàng tàn chừ, hay sao Nguy hư đi hộ vệ đây?
Theo hầu lại có bọn thần mây chừ, hay cô cưỡi mặt trăng đi chơi đây?
Tiếng bánh xe lộc cộc chừ, hay cô ngồi xe loan đi rong đây?
Mùi thơm thoang thoảng chừ, hay hoa hành đỗ tết làm dây đeo đây?
Màu quần áo chói lọi chừ, hay chạm mặt trăng làm đồ trang sức đây?
Mượn nơi um tùm để làm đàn tê chừ, hay cầm đuốc sen để thắp dầu hoa lan đây?
Chén rượu bằng quả bầu vẽ chừ, hay rượu ngon lẫn mùi hoa quế đây?
Ngửa mặt lên nhìn đám mây chừ, thấp thoáng như trông thấy ai đây?
Ghé tai nghe dưới làn sóng chừ, mơ màng như nghe tiếng ai đây?
Định rong chơi khắp khoảng bao la chừ, nỡ bỏ ta trơ trọi dạo cõi trần đây?
Nhờ thần gió đẩy xe cho ta chừ, để được cùng nắm dây cương trở về đây?
Nỗi thương cảm trong lòng chừ, kêu gào mãi có làm chi đây?
Sao cô cứ lặng lẽ ngồi yên chừ, hay lòng trời muốn thay đổi thế nào đây?
Đã ở yên nơi sâu thẳm chừ, lại còn muốn trở lại làm kiếp gì đây?
Đương bị gông cùm dưới hạ giới chừ, có thiêng hãy rủ ta cùng lên đây?
Ở lại hay về, thôi cô về đây?
Còn như lặng lẽ mênh mông, cô giờ nằm đấy.
Dù cô có về, ta nào trông thấy?
Màn che chằng những dây leo; xương bồ mọc thành hàng dãy.
Hẳn mắt liễu ngủ đã ham rồi, chắc lòng sen giờ không đắng mấy.
Hẹn trên non quế. Tố Nữ(12) miệng chào; đón dưới bến Lan, Bật phi(13) tay vẫy.
Sênh Lộng Ngọc(14) lách cách gần xa, trống hàn hoàng(15) thùng thùng vang dậy.
Lên vùng Tung Nhạc, hỏi Phi Tử đâu đây, dạo núi Ly Sơn, tìm lão tiên nào thấy?
Lượn sông Lạc Thủy, rùa hiện điềm lành; hát khúc Hàm Trì, thú đua điệu nhảy.
Rừng Châu Lâm(16) sáng rực, phượng đậu trên cao; sông Xích Thủy(17) đỏ ngầu, rồng gầm dưới đáy.
Lễ mọn gọi là, lòng thành nhận lấy.
Từ Hà Thành(18) xe quay bánh rầm rầm, về Huyền Phố(19) gió phất cờ hây hẩy.
Đã quấn quít sao bỗng e dè, đã hiển hiện sao còn trốn chạy?
Khi tan khi họp, như khói mây bay; lúc gần lúc xa, nhường mưa mù vậy.
Sao từng hàng rọi, mây vẫn sạch làu; trăng nửa đêm soi, núi sông lộng lẫy.
Trong khi thức ngủ, đâu thấy vui cười? Mà nỗi lòng riêng, vẫn còn áy náy?
Nay tôi ngậm ngùi than thở, giàn giụa lệ rơi.
Quãng không lặng lẽ chừ, đâu là tiếng người!
Trúc reo lách tách chừ, nghe như sáo trời!
Chim xào xạc chừ sợ bay khắp nơi!
Cá phập phồng chừ lặn xuống đáy khơi.
Để tỏ lòng thành chừ, dâng lễ kính người.
Hồn nay có thiêng, hiển hiện cho coi.
Than ôi! Thương thay! Mong cô về hưởng!

Bảo Ngọc đọc xong, liền đốt văn tế, dâng trà, quyến luyến không nỡ dứt. A hoàn giục mấy lần mới chịu quay về. Chợt nghe thấy phía sau núi đá có người cười nói: “Xin hãy đứng lại”. Hai người nghe thấy, hoảng sợ. A hoàn nhỏ quay lại nhìn thấy một bóng người trong khóm hoa phù dung đi ra. A hoàn kêu lên:
- Chết rồi, có ma! Chị Tình Văn hiện hồn về thực rồi!
Bảo Ngọc sợ hãi đứng nhìn, không biết là người hay ma.

-----------------------------
1. Chỉ người con gái vừa đẹp vừa biết võ nghệ.
2. Cuối đời Tây Hán, anh em Trương Giác khởi binh đánh triều đình, quân lính đều đội khăn vàng làm hiệu.
3. Cũng cuối đời Tây Hán, Phàn Sùng nổi quân chống lại triều đình, quân lính đều vẽ lông mày đỏ.
4. Đời xưa là con trai hai mươi tuổi mới đội mũ.
5. Đại Nguyễn tức Nguyễn Tịch, Tiểu Nguyễn tức Nguyễn Hàm, người đời Tấn, đều nổi tiếng về vần thơ.
6. Tức Ôn Đình Quân, Lý Hạ, Bạch Cư Dị, đều là những nhà thơ nổi tiếng đời Đường.
7. Giả Nghị đời Hán, bị dèm pha phải đày ra Trường Sa.
8. Nơi biên cương chỉ có chim nhạn mới qua được.
9. Cộng huyệt và đồng hôi có nghĩa là sống chết có nhau.
10. Diệp Pháp Thiện người đời Đường. Ông nhờ Lý Ung viết bài văn bia. Lý Ung không nhận. Một hôm, Lý Ung nằm ngủ, mơ thấy mình viết bài văn bia. Khi tỉnh dậy, vẫn chưa tin thì Diệp Pháp Thiện cầm bài văn đến.
11. Tức Lý Hạ đời Đường. Một hôm, có người con gái mặc áo đỏ đến mời Lý Hạ nói: “Ngọc Đế đã làm xong lầu, mời ông lên làm bài ký”.
12. Tức Hằng Nga.
13. Tức Lạc thần.
14. Đời Tần Mục công, nàng Lộng Ngọc học sáo Tiêu Sử, sau hai người lấy nhau.
15. Ống sáo.
16. 17. 18. 19. Đều là cõi tiên.
anh sex
truyen dam
phim sex hay
truyen sex hay
truyen lau xanh
truyen loan luan
truyen nguoi lon
truyen sex hoc sinh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét