Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

Tam Hạ Nam Đường 1-30-1

Trang 1 trong tổng số 13


Khuyết Danh

Tam Hạ Nam Đường

Dịch giả: Mộng Bình Sơn

Lời Giới Thiệu
Bộ Tam Hạ Nam Đường là một truyện thuộc đời Tống của nước Trung Hoa, khởi đầu từ vua Tống Thái Tổ tức là Triệu Khuông Dẫn lập quốc, truyền đến đời vua Tống Chơn Tôn.
Trong thời gian ấy, nước Tống chinh phục các nước lân bang, gồm thâu thiên hạ:
Cũng như các bộ truyện Tàu khác, tác giả đã thần thoại hóa qua các cuộc đua tài giữa thần tiên và yêu quái bằng pháp thuật, làm cho cốt truyện chứa nhiều màu sắc ly kỳ.
Thế giới thần tiên đã tham dự vào cõi trần tục, như Dư Hồng, Dư Triệu, lôi cuốn một số tiên, làm khổ chốn trần gian.
Mặt khác, trong chiến tranh tiêu diệt, sát phạt lẫn nhau, lại nẫy ra những mầm non, những mối tình yêu đương giữa những cặp trai tài, gái sắc rất nên quyến rũ, trong tàn tạ, hũy diệt lại vươn lên những mầm sống trong quy luật tự nhiên.
Tam Hạ Nam Đường còn ghi nhận cho chúng ta thấy những xấu xa hèn hạ của những con người vì danh lợi mà hành động phi nghĩa, lại có những nhân vật quên mình để bão vệ nhân tính, bão vệ đạo nghĩa làm người.
Bộ Tam Hạ Nam Đường đã phãn ảnh sâu sắc cho chúng ta thấy rằng giá trị con người không phải ở trong những kẻ có quyền chức, uy thế, mà nó rải khắp trong dân gian, trong những kẻ cô đơn nghèo khổ, nhưng biết tôn trọng đạo nghĩa làm người.
Đọc Tam Hạ Nam Đường là nhìn vào tấm gương xã hội, là suy xét những biến chuyển của tâm trạng người xưa, so sánh với người thời nay.
Người biên soạn
MộNG BìNH SƠN

anh sex
truyen dam
phim sex hay
truyen sex hay
truyen lau xanh
truyen loan luan
truyen nguoi lon
truyen sex hoc sinh

Hồi Thứ Nhất
Xích Mi sai đệ tử phạt Thái Tổ
Dư Hồng quyết hạ san giúp Nam Đường

Tại núi Thái Sơn có một vị tiên trưởng tên là Xích Mi lão tổ tu luyện hơn mấy ngàn năm, phép tắc vô cùng, tinh thông đúng mực. Ngày nọ các bạn tiên là: Lê Sơn Thánh Mẫu, Trần Đoàn lão tổ Hy Dy tiên sanh, Tôn Tẩn chơn nhơn, cùng tới động ông Xích Mi đàm đạo việc nhân gian.
Xích Mi lão tổ nói:
- Nay thiên hạ gần về một mối, Hương Hài Nhi vâng lệnh Thượng Đế nối nghiệp vua Châu Thế Tông, lại được Tào Bang, Triệu Phổ, Cao Hoài Đức, Trịnh ân, kẻ văn người võ phò tá, dựng nên cơ nghiệp. Nghĩ lại Châu Thế Tôn hiền lành nhơn đức, nối cơ nghiệp của Quách Ngạn Oai trị nước bấy lâu, sáng suốt hơn bốn đời vua trước. Nhưng lúc Châu Thế Tông băng hà, truyền ngôi cho ấu chúa, Hương Hài Nhi kế tục trị vì, đến khi Trần Kiêu làm phản, chư tướng hết lòng báo quốc, thuận lòng dân, hợp ý trời ấy cũng vì trời xui lòng người mới an thuận như vậy. Hương Hài Nhi lên ngôi, lẽ phải yêu mến các tướng của mình, lại ham mê tửu sắc, giết trung thần, trảm Trịnh Ân là em nuôi rất trung nghĩa. Rõ ràng là vua vô nhân đạo! Bởi kế ấy, ta muốn sai yêu quái xuống phá Hương Hài Nhi để trừng phạt tội bất nhân, bất nghĩa ấy.
Trần Đoàn lão tổ nói:
- Việc ấy cũng tưởng đáng trừng phạt, song chẳng qua cuộc đời phải vậy. Xưa nay hễ bề tôi có công lớn rồi thì phải giữ mình chẳng nên khinh xuất làm cho vua nghi ngờ nên mượn cớ đi tu mà lánh nạn, còn các tôi có công khác không đề phòng đều bị Cao Tổ giết hết. Còn như Hàn Tín, Anh Bố, Bành Việt là những người ham phú quý công danh, ỷ mình có công lớn, không đề phòng nên bị hại. Nếu họ noi theo Phạm Lãi thuở xưa, hay bắt chước Trương Lương mà tránh, thì ai hại mình được.
Xích Mi lão tổ nghe Trần Đoàn nói thì cười lớn:
- Lời bàn của đạo hữu có thể giác ngộ các trung thần có công dựng nước. Nhưng cõi tục hễ được chim thì bẻ ná, cho nên các vị vua hễ được nước rồi lại nghi tướng giỏi. Dù vậy Hương Hài Nhi và Trịnh ân, tuy bề ngoài là nghĩa chúa tôi, mà trong là tình thủ túc. Lấy lẽ phải mà nói thì nếu không đẹp lòng, không dùng nữa thì đuổi đi. Lẽ đâu giết oan người ta như vậy? Nếu không bị trừng phạt thì sao gọi là lẽ công bằng.

Tôn Tấn nói :
- Nếu lão tổ trừng phạt một mình vua vô đạo mà hại trăm họ dân đen, dẫu công bình cũng là tội nghiệp!
Xích Mi lão tổ nói:
- Nếu vậy ta không sai yêu quái xuống quấy rối, mà sai một vị thần thông phép tắc xuống đó trừng phạt cho vui lòng kẻ tôi trung, làm gương người bội bạc.
Các tiên thấy Xích Mi lão tổ định trừng phạt một mình Triệu Khuông Dẫn thì đều bằng lòng, không cãi nữa, cùng nhau từ giã lui về.
Xích Mi lão tổ bèn kêu một người đệ tử tên là Dư Hồng đến dạy rằng:
- Bởi ta trách vua Thái Tổ giết oan Trịnh ân, nên ta sai ngươi xuống nước Nam Đường, đầu vua Lý Cảnh, khiến Lý Cảnh đem quân đánh Tống, và bắt phục làm tôi. Vua Thái Tổ tính nết hung hăng, nghe chẳng phục tùng, ác là vấn tội. Lúc ấy ngươi phải ra tài thao lược, hóa phép thần thông, dạy người bạc nghĩa ít năm, giải oan kẻ trung thần nơi chín suối. Song ta cấm ngươi một điều là chẳng nên sát sánh giết tướng, bắt sống thì vô can, giết oan thì có tội. Ta chỉ muốn làm cho vua Thái Tổ đau lòng nhọc trí, khổ sở mà thôi. Khi mãn hạn ngươi sẽ về non mà tu luyện.

Nguyên Du Hồng cốt là chim hồng nhạn, có công tu luyện ngàn năm mới được hóa hình người, sau theo lão tổ học phép thần thông. Nay nghe có lời thầy cho hạ san thì muốn chớp cánh bay liền. Xích mi lão tổ trao phép, Dư Hồng vâng lệnh đằng vân xuống núi.
Bấy giờ vua nước Nam Đường là Lý Cảnh đóng đô tại đất Kim Lăng. Khi trước bị vua Châu Thế Tông hưng binh chinh phạt nên Vua Nam Đường sợ mà bỏ hiệu Hoàng Đế. Từ khi Tống Thái Tổ hùng cứ nhất phương, gồm thâu bốn nước, thì vua Nam Đường trở lại xưng đế, chiêu hiền đãi sĩ, kén chọn tướng tài ngày đêm rèn luyện ba quân. Quan văn tướng võ ước chừng vài mươi, quân giỏi binh hùng chừng hai mươi vạn. Vả lại vua Nam Đường thông minh trí tuệ, còn các danh tướng như: Huỳnh Phủ Huy, Huỳnh Nguyên Thế, Phụng Dương, đều là anh hùng cái thế, còn Tuyết Lữ, Tần Phụng, La Anh, Trịnh Phi Hổ đều là con dòng cháu giống thời trước lưu truyền. Lại có hai tướng tài là Long Văn, Văn Bảo, Lâm Văn Thả là tay hào kiệt. Vua sáng, tôi ngay quả Nam Đường là một nước hưng thịnh.
Một hôm Vua Nam Đường lâm triều, các quan chầu chực đủ mặt. Vua phán:
- Tống Thái Tổ dẹp nước Hớn Nam của Lưu An, lại trừ Cao Quí Hưng nơi phương tây, dẹp Mạnh Trí Tường nơi nước Thục đều nhờ binh tướng như Cao Hoài Đức, Vương Toàn Ban, Tào Ban, Phan Nhơn Mỹ, cầm binh như thần nên mới thâu các nước ấy được, trong thiên hạ mười phần về tay Thái Tổ hết tám. Tuy họ lấy đất Giang Nam ta chưa được, song ta cũng phải lo, vì sợ túi tham không đáy.
Các quan văn võ đều tâu:
- Tống mạnh tám phần, Đường chẳng được hai. Một góc Kim Lăng cự sao cho lại. Dẫu có binh hùng tướng mạnh cũng cự không nổi họ Vương, họ Tàu, họ Cao, họ Phan, chi bằng bỏ hiệu Hoàng Đế giữ bực chư hầu, dâng sớ chịu làm tôi, sắm lễ cống sứ thì giữ được cơ nghiệp, khỏi động đao binh.
Vua Nam Đường chưa kịp có ý kiến thì một viên tướng võ quì tâu:
- Chẳng nên ép mình làm tôi nước Tống. Nhà Đường là chính thống, cai trị mấy đời, còn nước Tống là dòng quan, một tên tướng soán ngôi, huống chi nước ta vua sáng tôi ngay, binh ròng tướng mạnh, bất quá Tống lo nghiệp Tống, Đường giữ nhà Đường, không lẽ họ dám cất quân đi đánh nước mạnh mẽ? Chi bằng bệ hạ sai sứ đem thơ, mượn cớ dọ thám việc binh tình để biết thiệt hư mà liệu bề xử sự, đừng thấy người đồn đại mà sợ.
Vua Nam Đường gật đầu khen phải.
Trong lúc chúa tôi đang bàn luận, xảy có quân vào báo:
- Có một đạo sĩ xin ra mắt.
Vua Nam Đường nghĩ thầm:
- Chắc có duyên cớ gì đạo sĩ mới đến đây.
Nghĩ rồi truyền lệnh cho vào ra mắt. Đạo sĩ bước vào thấy vua diện mạo oai nghi, hình dung mạnh mẽ, đôi mắt sáng ngời, liền qui tung hô vạn tuế.
Vua Nam Đường mời ngồi và hỏi:
- Chẳng hay đạo sĩ đến đây có việc chi dạy bảo?
Người đạo sĩ chính là Dư Hồng. Khi nghe vua Nam Đường hỏi, liền thong thả đáp:
- Tôi ở núi Thái Sơn, có nghe bệ hạ chiêu hiền đãi sĩ, yêu nước thương dân. Còn vua Tống tuy đã thâu được tám phần thiên hạ nhưng không lấy nổi Kim Lăng là vì phía đông có sông dài ngăn cách, tôi e bệ hạ kiêng oai mà phục tùng vua Tống, nên xuống giúp Bệ hạ, chưa rõ ý định Bệ hạ thế nào. Nếu Bệ hạ cần tôi giúp sức, tôi chẳng dám khoe, nhưng biết tài giá võ đằng vân, lại rõ vị lai quá khứ. Bởi số Bệ hạ nối nghiệp nhà Đường một cõi lâu dài.

Vua Nam Đường nghe nói rất đẹp lòng, hỏi:
- Trẫm đang nghị luận với bá quan, song chẳng biết nên đầu hay nên thủ, nay có đạo sư đến cùng luận việc ấy thì may cho trẫm biết chừng nào, nếu đạo sư sẵn lòng giúp đỡ thì trẫm khỏi lo, ấy cũng nhờ phước trời mới gặp người tài đức.
Nói rồi truyền quân sĩ dọn cuộc đăng đàn bài tướng, phong Dư Hồng làm Hộ Quốc Quân sư.
Dư Hồng lên đứng trên đàn, văn võ hai bên hầu hạ . Vua Nam Đường thưởng ba chén rượu, Quân sư nhậm lễ uống xong rồi xuống đài về dinh.
Hôm sau các quan vào chầu đủ mặt, vua Nam Đường hỏi Quân sư cách dùng binh. Dư Hồng đáp ứng rất trôi chảy, bá quan đều phục tùng, vui mừng không còn lo bị Thái Tổ xâm phạm đến Giang Nam. ấy cũng bởi trời xuôi cõi Kim Lăng có giặc.
Lời bàn.
Lòng tham vọng của con người phát xuất từ lúc đã thành công trên sự nghiệp. Xưa nay những vị về khôi phục đất nước, thường hy sinh chịu những đắng cay khổ cực, nhưng lúc cơ nghiệp đã vững vàng thái bình thạnh trị thì lại quên những lúc khổ đau, ham hưởng thụ những thú vui bỏ bê việc nước. Mặt khác lại theo lời kẻ nịnh thần áp chế và vong ơn đối với những trung thần có công dựng nước. Ấy vậy những kẻ có mưu lược hiểu được lòng người, khi nguy biến họ hế t mình phò vua giúp nước, nhưng đến khi hưởng thụ họ không màng. Tấm gương phạm Lãi, Trương Lương thuở xưa thật đáng là một bài học cho những ai ỷ vào công trạng của mình mà đòi hỏi vinh hoa phú quí để rồi chịu đau khổ vì lòng ganh tị của kẻ có quyền thế.
Hồi Thứ Hai
Chúa Nam Đường trả lời ngỗ nghịch
Vua Thái Tổ ngự giá thân chinh

Bấy giờ Triệu Khuông Dân nối ngôi Châu Hậu chúa nhường cho, cải tên nước là Đại Tống, xưng hiệu là Thái Tổ, đánh đông dẹp tây gom về một mối, các vua nước nhỏ đều đầu hàng cống sứ.
Ngày nọ, vua Thái Tổ ăn lễ mừng thọ, bá quan đều dâng lễ chúc mừng. Các nước gần xa đều sai sứ đem lễ vật đến bái kiến. Vua Tống Thái Tổ rất vui truyền dọn yến thết đãi. Giữa tiệc vua Thái Tổ uống ba tuần rượu rồi phán:
- Nay trẫm đã năm mươi tuổi thọ, các nơi đều dâng lễ, trong ngoài đều một lòng, duy có Lý Cảnh ở Kim Lăng, ỷ mình ở nơi hiểm hóc, khinh rẻ nước ta, đã không cho người đến viếng, cũng chẳng chúc mừng. Các quan nghĩ thế nào?
Quan Binh Bộ Thượng Thơ là Phan Mỹ tâu:
- Tôi nghe Lý Cảnh chiêu hiền đãi sĩ, tích thảo dồn lương, chắc là có ý làm phản. Nay các nước nhỏ đều về chầu cống lễ, chúc thọ bệ hạ. Nam Đường có chúa, coi Đại Tống không người, sẵn dịp này vấn tội Kim Lăng là điều chính đáng.
Vua Thái Tổ chưa kịp nói thì Quân sư Miêu Huấn tâu:
- Tội Nam Đường đáng trách phạt, nhưng nay thiên hạ theo phò, giá một khoảng Giang Nam chống trời sao nổi. Xin Bệ hạ xuống chiếu trách phạt vua Lý Cảnh làm nhục triều đình. Nếu Nam Đường biết lỗi, dâng thơ chịu tội thì tha. Như vậy cũng rõ lòng nhân của Bệ hạ.
Vua Thái Tổ phán:
- Trẫm cũng thuận lòng trời, không ưa sát phạt, vậy thì khanh thảo một lời hịch cho sứ cầm đến Nam Đường.
Mãn tiệc bá quan ai về dinh nấy.
Hôm sau, Miêu Huấn thảo xong tờ hịch dâng lên cho vua xem.
Vua Thái Tổ bằng lòng, đóng ấn rồi sai khâm sai đem qua cho Lý Cảnh.
Ngày nọ vua Nam Đường đang ngự, bỗng có quân vào báo:
- Vua Tống sai sứ đem thơ, xin vào ra mắt.

Vua Nam Đường đòi vào. Khâm sai dâng hịch trước sân chầu, vua Nam Đường mở ra xem, thấy tờ hịch viết như sau:
“Xưa nhà Đường có suy yếu, khiến nước chia năm, sau nhà Châu hưng thịnh cũng khó bề thâu về một mối. Nay nước ta vua nhân, tôi sáng, đổi họa làm an, cứu dân trong nước lửa, đức bủa khắp non sông, trăm họ đội ơn, bốn phương mến đức.
Nước ngươi là Nam Đường, trộm xưng đế hiệu, chúa ta là Đại Tống muốn đem binh vấn tội bấy lâu, song trước phải dạy khuyên chớ chưa vội trừng phạt, kém việc nhơn từ. Nay đem bút mực mà khuyên, ngõ vẹn bề hòa hảo.
Vua Nam Đường có lẽ tai từng nghe, mắt đã từng thấy những gương xưa, bởi vì trời không có hai mặt nhựt, nước không thể có hai vua. Người sánh thấy họa khí chưa bay mùi, kẻ trí lánh nạn khi chưa có cớ. Cho nên Vi Tử bỏ nhà Thương mà chịu chức nhà Châu, A Đẩu dâng nước Thục mà làm quan nước Tấn. Vua Nam Đường cũng nên bắt chước theo, thì bình an một nước êm ái muôn dân, kẻ làm ruộng không bỏ đồng, người đi buôn không bỏ chợ, yên nhà, lợi nước, không tổn tướng hao binh. Nếu chấp nhất chẳng suy thì ngọc đá cháy tiêu, binh Tống đến thành thì nóc nhà lật úp, không kịp trở tay, ăn năn thì đã muộn ".

Vua Nam Đường giật mình, mời triều thần bàn luận. Dư Hồng xem tờ hịch giận lắm, nói:
- Ngòi bút kẻ nho tuy sắc sảo, song ta lương đủ, binh ròng, có sợ gì chúng nó.
Nói rồi lấy bút viết một bài thơ đằng sau tấm hịch rằng:
Nam Đường nối nghiệp của tiền Đường
Rằng muốn đem binh đánh Biện Lương
Trí sẵn Tôn Ngô, thông chiến trận
Mạng thêm La Tiết giỏi cung thương.
Trói mèo Hoài Đức chiêng chưa gióng
Bắt sống Tam Xuân ná chửa giương,
Sớm biết mạng trời âu cống lễ
Kẻo lâm rìu búa thấy Diêm Vương.

Ở dưới ký tên Đại Đường Hoàng Đế chánh tông gởi cho Tống Đế thâu khán.
Khâm sứ lãnh hịch đem về dâng cho Tống Thái Tổ.
Tống Thái Tổ xem hịch nổi giận vỗ bàn hét:
- Nam Đường quả thật to gan, lớn mật! Lý Cảnh thật có bụng khinh người. Ta đã dung cho nó một vùng đất ở an, vì thương đến muôn dân lê thứ. Nay nó đã bày lời phản nghịch, dung tha thì các nước chê cười. Nó đã dám nói như vậy thì chắc còn dám làm nhiều việc đối nghịch khác. Cỏ non chẳng nhổ, để lớn nhọc công, lửa đốm không dập tắt để nó bừng lên thì khó chữa.
Nói rồi vua Tống hỏi các quan văn võ:
- Nay trẫm quyết đem quân phạt Nam Đường, làm cho Lý Cảnh vỡ mật mới vui lòng, chẳng hay chư khanh nghĩ thế nào?
Đông Bình vương Cao Hoài Đức tâu:
- Quận Kim Lăng có tám mươi mốt châu, được bao nhiêu lương thực, còn các quan Nam Đường thì khoe môi hưởng lộc, khua miệng làm oai, nhỏ muốn cự to, yếu không nhường mạnh. Ấy là đi tìm tai họa, mang nạn vào thân. Không cần Bệ hạ phải nhọc sức, hạ thần chỉ xin mượn oai hùm cũng trừ đặng loài cáo.
Vua Thái Tổ phán:
- Khanh luận bàn cũng phải, song trẫm mười tám năm cầm đao, cưỡi ngựa, xông pha chiến trận, nay Lý Cảnh khoe tài xấc láo để quả nhơn ngự giá thân chinh, bắt sống nó mà rửa hờn. Trẫm đã có ý như vậy khanh chớ ngăn cản. Nay phong cho Đông Bình vương làm chức Chinh thảo Đại Nguyên Soái, Sử Khuê và Thạch Thủ Tín lãnh tả hữu tiên phong, Phùng Ích làm tham quan, Tào Ban, Phan Mỹ, Vương Ngạn Thăng, La Ngạn Oai làm phụ quân.
Còn Quân sư Miêu Tùng Thiệu đi làm hộ giá. Vương Toàn Ban giải lương. Vậy các khanh ra công hợp lực, đồng lòng trừ nghịch, thắng trận trở về trẫm sẽ luận công ban thưởng.
Các quan văn võ đều tuân lệnh. Vua Thái Tổ ra lệnh bắt chầu.
Hôm sau Thái Tổ nói với Hoàng đệ là Triệu Quang Nghĩa rằng:
- Ngự đệ ơi! Nay trẫm xuống Giang Nam phạt Lý Cảnh, giao nước lại cho Ngự đệ thay mặt triều đình, trẫm đi chừng một năm sẽ trở về .
Triệu Quang Nghĩa vâng lời. Thái Tổ lại trình với Đỗ Thái hậu mọi dự tính.
Đỗ Thái hậu nói:
- Hoàng nhi mười tám năm chinh chiến, nay lại hưng binh chinh phạt làm cho nhọc mình vàng. Cứ sai tướng đi đánh cũng đủ. Vả lại cách hai đêm nay mẹ chiêm bao thấy một điều không tốt.

Vua Thái Tổ hỏi:
- Chẳng hay mẫu hoàng thấy điềm gì?
Đỗ Thái hậu nói:
- Ta thấy Hoàng nhi leo lên cây lý rồi sút tay té xuống, năm con phụng từ trên trời bay xuống một lúc, xòe cánh mà đỡ. Sau đó ta giật mình thức dậy. Vậy lần này Hoàng nhi sai tướng thì hay hơn.
Thái Tổ thưa:
- Xin Mẫu hậu đừng lo việc ấy, con từ mười sáu tuổi đã dạo khắp bốn phương, cả trong thiên hạ, từ Biện Lương đến Kim Lăng đi chừng bốn mươi ngày, chẳng xa xôi gì đó. Vả lại Mẫu hậu thấy điềm rất tốt. Con leo lên cây lý, mà lý là họ vua Đường, còn năm con phụng đỡ con, là có năm nữ tướng tài hoa giúp sức. Bấy lâu ở trong cung tù túng, nay con dạo ra ngoài cho thảnh thơi, huống chi thiên hạ mười phần đã thu hết tám, còn Kim Lăng là một khoảng núi non, lấy dễ như trở bàn tay. Nếu để nó ngỗ nghịch thì các nước chê cười. Lẽ thường, trời không hai mặt đất chẳng hai vua, xin mẫu hậu cho con đi, nếu không ngự giá thân chinh thì tướng sĩ không hết lòng.
Đỗ Thái hậu biết lánh Thái Tổ không ưa câu thúc, nên mỉm cười nói:
- Nếu Hoàng Nhi muốn đi xin chớ ra trận, phải giữ mình làm trọng thì mẹ mới an lòng.
Vua Thái Tổ vâng lời mẹ lui ra, về cung từ giã Hoàng hậu.
Hoàng hậu biết không cản được vua, liền rót rượu tiễn hành cầu xin thắng trận.
Lời bàn:
Tranh chấp quyền thế là bản chất của loài người tạo ra chiến tranh, đánh giết lẫn nhau, từ xưa đến nay vẫn không tránh khỏi.
Vua Thái Tổ mỡ tiệc mừng thọ, các nước đều đem lễ vật triều cống, vua nước Nam Đường không tham dư, làm cho vua Thái Tổ thấy bị mất danh dự trong thiên hạ. Ấy cũng chỉ vì tự xem mình là cao hơn cả mọi người. Bản tính tự cao tự phụ gây nên những tệ hại trong cuộc sống, làm tất cả những việc thiếu nhân tâm. Còn vua Nam Đường bị sỉ nhục không thể ngồi yên, thì đó cũng chỉ là bị đụng chạm danh dự của mình. Cả hai đều từ bản chất tự cao tự phụ mà gây nên chiến tranh, giết hại lê dân. Nếu tánh tự cao tự phụ mà ở trong một người thường thì tai hại bản thân không bao nhiêu, còn ở trong một ông vua thì tai hại cả đất nước.
anh sex
truyen dam
phim sex hay
truyen sex hay
truyen lau xanh
truyen loan luan
truyen nguoi lon
truyen sex hoc sinh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét